Tính Ưu Việt Của Chủ Nghĩa Xã Hội Ở Cuba

Tính Ưu Việt Của Chủ Nghĩa Xã Hội Ở Cuba

Chủ nghĩa xã hội (CNXH) theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. CNXH tiến bộ, ưu việt hơn tất cả các xã hội trước đó về các đặc trưng chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm giải phóng con người khỏi mọi tình trạng áp bức, bóc lột, bất công. Để xây dựng CNXH, những người cộng sản phải hình dung, phác thảo ra được những đường nét cơ bản nhất của mô hình CNXH (mà chúng ta gọi đó là những “đặc trưng”). Nếu không phác thảo được mô hình, những đường nét cơ bản thì rất khó định hướng để xây dựng CNXH và biến nó trở thành hiện thực. Hơn nữa, những đặc trưng thể hiện mô hình đó phải phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người, phản ánh được nét đặc sắc của truyền thống dân tộc và xu thế phát triển của thời đại. Đây là đòi hỏi tất yếu nhưng rất khó khăn đối với các Đảng Cộng sản trong quá trình lãnh đạo xây dựng CNXH.

Chủ nghĩa xã hội (CNXH) theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. CNXH tiến bộ, ưu việt hơn tất cả các xã hội trước đó về các đặc trưng chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm giải phóng con người khỏi mọi tình trạng áp bức, bóc lột, bất công. Để xây dựng CNXH, những người cộng sản phải hình dung, phác thảo ra được những đường nét cơ bản nhất của mô hình CNXH (mà chúng ta gọi đó là những “đặc trưng”). Nếu không phác thảo được mô hình, những đường nét cơ bản thì rất khó định hướng để xây dựng CNXH và biến nó trở thành hiện thực. Hơn nữa, những đặc trưng thể hiện mô hình đó phải phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người, phản ánh được nét đặc sắc của truyền thống dân tộc và xu thế phát triển của thời đại. Đây là đòi hỏi tất yếu nhưng rất khó khăn đối với các Đảng Cộng sản trong quá trình lãnh đạo xây dựng CNXH.

TRƯỜNG CÁN BỘ QUẢN LÝ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

Trưởng Ban biên tập:  TS. Phạm Quế Anh

Địa chỉ: Số 128A Hồ Tùng Mậu, Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội.

Điện thoại: (024) 3792.1489 * Fax: (024) 376 403 94

Giấy phép hoạt động số: 229/GP-TTĐT

Khi nói tới mô hình chủ nghĩa xã hội (CNXH) là để trả lời câu hỏi: quan niệm như thế nào về CNXH, hay CNXH là gì? Mô hình CNXH là phạm trù để chỉ quan niệm về chế độ kinh tế - chính trị - xã hội được xây dựng theo nguyên tắc của CNXH khoa học và phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Nó bao gồm những đặc trưng về kinh tế, chính trị xã hội, văn hóa tư tưởng... theo đó, bản chất của CNXH dần được hoàn chỉnh và bộc lộ ra các đặc điểm ưu việt. Quan niệm về mô hình CNXH thế nào thể hiện nhận thức của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở mỗi nước về xã hội sẽ xây dựng. Quan niệm về mô hình CNXH, theo đóliên quan trực tiếp đến hiệu quả, thậm chí thành - bại trong xây dựng CNXH. Quan niệm chưa đúng đắn thì hành động chưa thể đạt kết quả. Các nhà kinh điển mácxít rất quan tâm tới vấn đề này.

C.Mác từng phê phán những sai lầm của các nhà CNXH không tưởng về mô hình xã hội tương lai, như phê phán quan niệm mang nhiều ảo tưởng về mô hình XHCN của công nhân Pháp trong “Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848 - 1850”, “Nội chiến ở Pháp”, quan niệm sai lầm về chủ nghĩa cộng sản của Látxan trong “Phê phán Cương lĩnh Gôta”... Còn Ăngghen đã phê phán về “bệnh phóng họa lịch sử”, xa rời “mảnh đất hiện thực” của những người cộng sản khi quan niệm về CNXH. Bản thân Người cũng thừa nhận: “Lịch sử đã chứng minh rằng chúng tôi cũng đã phạm sai lầm, lịch sử đã vạch ra rằng quan điểm của chúng tôi lúc bấy giờ là một ảo tưởng. Lịch sử lại còn đi xa hơn thế nữa: lịch sử không những đã đánh tan sai lầm hồi bấy giờ của chúng tôi mà còn hoàn toàn đảo lộn những điều kiện trong đó giai cấp vô sản đang phải chiến đấu... và đó là một điểm đáng được nghiên cứu tỷ mỷ hơn nữa”(1). Và để tránh điều đó, Ph.Ăngghen yêu cầu: “Ngày nay vấn đề trước hết là phải nghiên cứu thêm, trong mọi chi tiết và mọi mối liên hệ của nó”(2).

V.I.Lênin cũng đã có nhiều phê phán về bệnh ấu trĩ tả khuynh, sự nóng vội, quan điểm biệt phái... trong xây dựng CNXH của những người Bônsêvích, của phái “Văn hóa vô sản” (Proletcult)...

Thực tế của CNXH trong vài thập niên gần đây cũng xác nhận tầm quan trọng chiến lược của việc đổi mới tư duy để nhận thức đầy đủ, đúng đắn hơn về mô hình CNXH. Thành tựu và những vấn đề đặt ra trong cải cách, đổi mới cũng luôn đòi hỏi chủ thể của tư duy chiến lược phải coi việc tiếp tục hoàn thiện nhận thức về mô hình CNXH là công việc thường xuyên và cấp bách.

Mô hình CNXH là sản phẩm của tư duy chiến lược mà chủ thể hàng đầu là Đảng Cộng sản - người lãnh đạo sự nghiệp xây dựng CNXH. Khả năng điều chỉnh mô hình CNXH tùy thuộc vào hoạt động thực tiễn và năng lực tư duy lý luận của các Đảng Cộng sản. Nhu cầu của thực tiễn mỗi nước, đặc điểm của bối cảnh thời đại, sự kiểm chứng hiệu quả thực tiễn của sự nghiệp xây dựng CNXH hiện thực, việc trao đổi và học tập, kế thừa kinh nghiệm giữa các Đảng Cộng sản là những nhân tố thực tiễn thúc đẩy điều chỉnh mô hình.

Thực tế xây dựng CNXH còn chỉ ra một vấn đề có tính quy luật là có thể có nhiều mô hìnhCNXH cho các quốc gia khác nhau và một mô hình cũng có thể điều chỉnh nhiều lầntrong quá trình hiện thực hóa. Năng lực tư duy lý luận của các Đảng Cộng sản là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng và điều chỉnh mô hình CNXH, bao gồm: khả năng nhận biết cái mới hoặc sự bất cập trong quá trình hiện thực hóa mô hình; sự nhạy cảm với những yếu tố thay đổi của điều kiện, khả năng điều chỉnh hành động và biết giữ vững nguyên tắc trong việc tìm kiếm mô hình hoặc thay đổi biện pháp thực hiện mô hình... Ngoài ra, ý chí chính trị, sự kiên định, đồng thuận xã hội với mô hình đã định cũng là những nhân tố được thực tiễn khẳng định có vai trò rất quan trọng trong việc hiện thực hóa mô hình CNXH.

Mô hình CNXH trên thế giới cũng đã trải qua nhiều chặng phát triển. Từ mô hình mang tính đơn nhất là CNXH kiểu Liên Xô - được áp dụng khá phổ biến và ít biến thể vào nhiều quốc gia, thông qua cải cách đổi mới, đã xuất hiện nhiều mô hình sáng tạo, song vẫn mang tính chất XHCN như mô hình CNXH đặc sắc Trung Quốc, mô hình CNXH của Việt Nam, mô hình CNXH kiểu Cu ba, mô hình CNXH ở Lào... Theo đó, lý luận về CNXH cũng ngày một đầy đủ và phù hợp thực tế hơn. Sự xuất hiện các mô hình CNXH thời kỳ cải cách, đổi mới vừa khẳng định sức sống của CNXH, vừa là thành tựu lý luận quan trọng bậc nhất của CNXH hiện thực hiện nay.

Trong thực tiễn nghiên cứu lý luận CNXH ở Việt Nam, khái niệm mô hình theo nghĩa trên được sử dụng rộng rãi và khá thống nhất về nội hàm, tuy vậy, trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, khái niệm mô hình CNXH ở Việt Nam chưa thấy được sử dụng. Thay vào đó là những khái niệm tương đương để phản ánh quan niệm về “xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng” (Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011) “quan niệm về chủ nghĩa xã hội” hoặc các “đặc trưng” của CNXH ở Việt Nam...

Khái niệm “mô hình” có khả năng diễn đạt tinh thần thực tiễn, tính chất  năng động và cả khả năng bổ sung, phát triển, điều chỉnh của quan niệm về CNXH. Thành tựu của thực tiễn đổi mới và của quá trình phát triển tư duy lý luận về CNXH hiện nay đã xác nhận khái niệm mô hình CNXH, vì vậy trong các văn kiện của Đảng và trong nghiên cứu lý luận, nên sử dụng khái niệm mô hình CNXH rộng rãi hơn.

PGS, TS. Nguyễn An Ninh - Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(1) C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.22 , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.758.

(2) C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.305.

Chủ nghĩa xã hội khoa học là thuật ngữ được Friedrich Engels nêu ra[1] để mô tả các lý thuyết về kinh tế-chính trị-xã hội do Karl Marx và ông sáng tạo. Thuật ngữ này đối lập với chủ nghĩa xã hội không tưởng vì nó trình bày một cách có hệ thống và nêu bật lên được những điều kiện và tiền đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội khoa học đó là nó chỉ rõ con đường hiện thực dựa vào khoa học để loại bỏ tình trạng người bóc lột người và đưa ra một tổ chức xã hội mới không biết đến những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản mà những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng đã mơ ước nhưng không thực hiện được.[2]

Theo các nhà nghiên cứu chủ nghĩa Marx-Lenin thì chủ nghĩa xã hội khoa học về mặt lý luận nằm trong khái niệm "chủ nghĩa xã hội", là một trong ba bộ phận hợp thành của chủ nghĩa Marx-Lenin, nghiên cứu sự vận động xã hội nhằm thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, tiến tới xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa. Theo nghĩa hẹp thì chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận của chủ nghĩa Marx-Lenin. Chủ nghĩa xã hội khoa học đã dựa trên phương pháp luận triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời cũng dựa trên những cơ sở lý luận khoa học về các quy luật kinh tế, quan hệ chính trị - xã hội... để luận giải một cách khoa học về quá trình nảy sinh cách mạng xã hội chủ nghĩa, hình thành và phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, gắn liền với sứ mệnh lịch sử có tính toàn thế giới của giai cấp công nhân hiện đại, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã hội.[3]

Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội khoa học tức là chủ nghĩa Marx-Lenin (bao gồm cả ba bộ phận). Nghĩa rộng của chủ nghĩa xã hội khoa học, V.I.Lenin khẳng định: "chủ nghĩa xã hội khoa học tức là chủ nghĩa Mác".[3] Vì triết học Marx lẫn kinh tế chính trị Marx đều dẫn đến cái tất yếu lịch sử là làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Theo họ, những người lãnh đạo, tổ chức cùng nhân dân thực hiện sự nghiệp cách mạng lâu dài và triệt để đó chỉ có thể là giai cấp công nhân hiện đại, thông qua đảng của nó. V.I. Lenin nhận định: "bộ "Tư bản" - tác phẩm chủ yếu và cơ bản ấy trình bày chủ nghĩa xã hội khoa học... những yếu tố từ đó nảy sinh ra chế độ tương lai"'.[4]

Các quy luật và tính quy luật chính trị - xã hội của quá trình phát sinh, hình thành và phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa; những nguyên tắc cơ bản, điều kiện, con đường và hình thức, phương pháp đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân để xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Nội dung quan trọng của lý thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đây là phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một thành tích chủ nghĩa Marx - Lenin.

Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân theo Marx và Engels là những người công nhân sẽ xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.

Sau V.I. Lenin cũng phát biểu rằng:[6]

Luận thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã được K. Marx và F. Engels trình bày trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Trong tác phẩm này các ông đã chỉ rõ các điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

Hệ thống xã hội chủ nghĩa là thể chế chính trị mà được các nước có các đảng Cộng sản nắm quyền lãnh đạo tuyên bố sẽ đưa đất nước và dân tộc mình đi theo một con đường xã hội chủ nghĩa. Các nước này, tạm gọi tắt là hệ thống Xô viết, tự gọi mình là các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó từ chủ nghĩa xã hội được dùng theo nghĩa giai đoạn trước chủ nghĩa cộng sản. Một số nước, chính thể, nhóm hoặc cá nhân lại gọi họ là các nước cộng sản. Hệ thống các nước này không bao gồm các nước có mục tiêu chủ nghĩa xã hội không theo chủ nghĩa Marx-Lenin. Các nước xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng Cộng sản và theo chủ nghĩa Marx-Lenin gồm có Trung Quốc, Cuba, Lào và Việt Nam.

Những từ tương đồng với hệ thống xã hội chủ nghĩa trong sách báo còn có hệ thống kiểu Xô Viết cũ, kinh tế quản lý tập trung, kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế mệnh lệnh và xã hội chủ nghĩa nhà nước.

Nhà kinh tế chính trị học người Hungary Kornai János, trong cuốn Hệ thống xã hội chủ nghĩa của ông, đã đi phân loại 3 nguyên mẫu của hệ thống xã hội chủ nghĩa:

Các đặc trưng của cơ cấu quyền lực chính là nền tảng để từ đó suy ra quy luật vận hành của chính hệ thống xã hội chủ nghĩa.

Thể chế căn bản của cơ cấu quyền lực là đảng cộng sản. Các nước xã hội chủ nghĩa có hệ thống đơn đảng, trong đó không đảng đối lập khác nào được hoạt động. Ở thời điểm đỉnh cao của quyền lực, đảng viên chiếm 1 tỉ lệ dân số đáng kể.

Phương châm chủ đạo của nguyên tắc tổ chức của Đảng là nguyên tắc tập trung dân chủ.

Ban lãnh đạo được bầu tại hội tổ chức cơ sở theo từng nhiệm kỳ cụ thể. Mỗi tổ chức cơ sở có 1 bí thư lãnh đạo.

Các cơ sở chịu sự lãnh đạo của tổ chức đảng cao hơn, thường được tổ chức trên nguyên tắc phạm vi lãnh thổ.

Lãnh đạo cấp trung ương có bộ tham mưu rất lớn, là những người tạo ra hệ thống thứ bậc bao gồm những người đứng đầu các ban, phó ban và những viên chức. Theo quy định chính thức, quan chức được chỉ định của đảng không có quyền lực, bởi vì quyền quyết định duy nhất thuộc về các cơ quan được bầu ra. Trên thực tế, họ có ảnh hưởng lớn đến việc quản lý các hoạt động.

Các cán bộ lãnh đạo được bầu (làm việc chuyên trách) và công chức được của đảng thường được biết đến như là bộ máy của đảng.

Bản chất của quá trình lựa chọn đã bị đảo lộn. Trên thực tế, cơ quan được bầu không được chọn thành viên của bộ máy. Thay vào đó bộ máy lựa chọn những người sẽ tham gia cơ quan được bầu cho lần bầu cử tiếp theo, và chọn ra ai là người mà họ sẽ bầu làm bí thư. Bộ máy xác định ai là người được gia nhập đảng, đảng viên nào trở thành thành viên của bộ máy đảng (nói cách khác là công chức của đảng) và công chức nào của bộ máy đảng được tiến cử lên vị trí cao hơn.

Theo hiến pháp, pháp luật và các quy phạm pháp luật, nhà nước dưới hệ thống xã hội chủ nghĩa cổ điển cũng giống như các nhà nước hiện đại khác. Nhà nước được chia thành 3 ngành: lập pháp, hành pháp và tư pháp; cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm hành pháp và tư pháp.

Hiến pháp của nhiều nước xã hội chủ nghĩa khẳng định: Lực lượng lãnh đạo đất nước là đảng cộng sản. Pháp luật của các nước xã hội chủ nghĩa không xác định cụ thể nhưng trong thực tế phạm vi quyền phán quyết của đảng bao trùm lên các lĩnh vực:

Nhiều tổ chức, hiệp hội trong xã hội được gọi chung là các tổ chức quần chúng. Đặc điểm chính của các tổ chức này là mỗi tổ chức được quản lý 1 lĩnh vực nhất định.

Sự độc quyền về tổ chức tạo cho các tổ chức đại chúng có chức năng đồng thời như 1 cơ quan có thẩm quyền.

Cách thức xây dựng và điều hành các tổ chức quần chúng chủ yếu trên cơ sở cụ thể hóa chủ trương, đường lối đã định sẵn của đảng. Vì vậy, các tổ chức quần chúng nếu có tham gia vào quá trình bầu cử cơ quan đại diện nhân dân hoặc quá trình xây dựng chính sách thì chủ yếu là theo định hướng đã vạch sẵn. Đó chính là nét đặc trưng của hệ thống không chấp nhận đa nguyên chính trị. Tuy nhiên, điều nguy hiểm nhất của hệ thống là nếu các tổ chức, cá nhân hoạt động không khách quan thì sẽ không bảo vệ quyền lợi của tầng lớp mà họ được cử làm đại diện, qua đó, người dân có thể mất đi cơ hội có tiếng nói của mình. Và lỗ hổng này đang dần bộc lộ ở các nước xã hội chủ nghĩa khi quan chức lớn nhỏ có thể tự do tham nhũng, tham chức cao vọng trọng mà không có bộ phận do người dân giám sát chính quyền như các nền dân chủ phương Tây.

Một số tổ chức chính trị xã hội ở Việt Nam:

Hệ tư tưởng chính thống được nêu trong nghị quyết của đảng, các bài phát biểu, bài viết của các nhà lãnh đạo đảng, sách giáo khoa về hệ tư tưởng, các bài báo và các công bố chính thức khác.

Hệ tư tưởng chính thống xuất phát từ nhiều nguồn và bám rễ sâu vào lịch sử của các ý tưởng xã hội chủ nghĩa.

Tầng sâu nhất là tư tưởng của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng và sau đó chủ yếu là các ý tưởng của Karl Marx.

Tầng tiếp theo bao gồm các ý tưởng, nguyện vọng và giá trị của phong trào cách mạng ở các nước sau này thành xã hội chủ nghĩa.

Tiếp theo đó là phạm vi của các tư tưởng xuất phát trong giai đoạn chuyển đổi cách mạng, rút ra từ những kinh nghiệm mà đảng cộng sản, từ vị thế một đảng cách mạng đối lập chuyển thành đảng cầm quyền.

Hình thức sở hữu đầu tiên và quan trọng nhất là xí nghiệp sở hữu nhà nước. Hình thức sở hữu thứ 2 là hợp tác xã.

Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa cổ điển, các xí nghiệp tư nhân thuê lao động làm thuê hoặc là không tồn tại, hoặc bị hạn chế ở 1 bộ phận rất nhỏ của nền kinh tế.

Sự triệt tiêu gần như hoàn toàn chủ nghĩa tư bản tư nhân chính là điều được hệ tư tưởng chính thống coi là 1 tiêu chuẩn chủ yếu, thậm chí là tiêu chuẩn chủ yếu nhất của chủ nghĩa xã hội. Về tư tưởng, chỉ có sở hữu nhà nước và sở hữu hợp tác xã mới được công nhận là xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, các hình thức sở hữu tư nhân khác nhau vẫn tồn tại như thương mại và công nghiệp tư nhân cỡ nhỏ, canh tác nông nghiệp hộ gia đình, nền kinh tế tư nhân không chính thức.

Thực tế nhiều quốc gia hiện nay được gọi là nằm trong hệ thống xã hội chủ nghĩa có mức độ sở hữu tư nhân cao, như Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Hiện nay một số quốc gia xã hội chủ nghĩa như Việt Nam đang tiến trên con đường kinh tế thị trường, đánh giá cao vai trò của tư nhân trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Chủ nghĩa xã hội không tưởng là một từ dùng để chỉ những lầm tư tưởng xã hội hiện đại đầu tiên. Mặc dù, theo đúng nghĩa mà nói, mọi người sống tại bất kỳ một thời điểm lịch sử nào đều có thể là người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng, từ này thường được dùng nhất để chỉ những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng trong hai mươi lăm năm đầu tiên của thế kỷ 19. Từ giữa thế kỷ 19 trở đi, những nhánh khác của chủ nghĩa xã hội đã vượt trội hơn so với phiên bản không tưởng về mặt phát triển trí tuệ và số người ủng hộ. Những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng đã đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành những phong trào hiện đại cho cộng đồng định trước và các tổ chức hợp tác.

Chủ nghĩa xã hội không tưởng ra đời từ khi con người có ý thức. Nó thể hiện qua câu truyện cổ tích, sử thi. Nó thể hiện khát vọng công bằng, tự do, khát vọng chinh phục tự nhiên. Nó còn đóng góp việc hình thành tôn giáo. Tuy vậy theo Engels thì chủ nghĩa này vẫn chưa chín muồi vì những lý luận chưa chín muồi đó chính là phù hợp với tình trạng chưa chín muồi của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, với những quan hệ giai cấp chưa chín muồi.

Theo những người Marxist, chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán sâu sắc chủ nghĩa tư bản và lên tiếng bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, nó không thấy được bản chất của chủ nghĩa tư bản, không vạch ra được con đường giải phóng nhân dân lao động và phủ nhận đấu tranh giai cấp.